Nguy cơ người đái tháo đường khi trời nắng, nóng

Thời tiết nóng nực có thể ảnh hưởng đến đường máu theo cả hai chiều hướng: tăng và hạ đường máu.

Biến đổi khí hậu làm cho thời tiết càng trở nên gay gắt: trời nóng hơn và thay đổi nhanh hơn. Với người bình thường đã cảm thấy khó thích nghi và khó chịu. Với người bệnh đái tháo đường, thời tiết quá nóng bức còn thêm nguy cơ tăng hoặc giảm đường máu. Do thời tiết nóng bức làm mất nước qua mồ hôi và hơi thở khiến cho máu bị cô đặc và do vậy đường máu tăng cao. Nếu bạn dùng nhiều nước ép quả hoặc nước ngọt giải khát thì đường máu còn có thể tăng rất cao.

Người bệnh đái tháo đường cần phải uống nước đều đặn cả ngày. Chủ yếu là nước lọc và hãy uống ngay cả khi chưa cảm thấy khát. Mặt khác, người bệnh đái tháo đường đồng thời đối diện với nguy cơ bị hạ đường máu khi trời quá nóng bức. Do thời tiết nóng làm gia tăng chuyển hóa, với những người tiêm insuin thì insulin tại nơi tiêm có xu hướng hấp thu nhanh hơn (do mạch máu dưới da giãn hơn) nên đường máu có thể thấp hơn bình thường. Thời tiết quá nóng cũng làm cho chúng ta mệt mỏi, chán ăn. Vì vậy, nguy cơ hạ đường máu cũng có thể gia tăng.

Khi trời nóng, người cao tuổi nên kiểm tra đường huyết thường xuyên. Ảnh: TM

Khi trời nóng, người cao tuổi nên kiểm tra đường huyết thường xuyên. Ảnh: TM

Các triệu chứng hạ đường máu vào những ngày nóng nực có thể khó nhận biết hơn bình thường: dấu hiệu vã mồ hôi hoặc cảm giác mệt mỏi được cho là do trời nóng cũng có thể là triệu chứng của hạ đường máu.

Bạn cần phải thử đường máu thường xuyên hơn nếu đi du lịch trong những ngày hè. Liều insulin có thể cần phải thay đổi nếu bạn từng có những rắc rối liên quan đến thời tiết nóng bức. Hãy trao đổi với bác sĩ về chủ đề đó trước khi khởi hành.

ThS.BS. Nguyễn Huy Cường

Mẹ bị buồng trứng đa nang, con dễ bị tự kỷ

Phân tích hồ sơ sức khỏe từ 8.588 phụ nữ mắc PCOS và 41.127 phụ nữ không mắc PCOS cho thấy phụ nữ bị PCOS có khoảng 2,3% nguy cơ sinh con mắc chứng tự kỷ, so với 1,7% của các bà mẹ không mắc PCOS.

Trong một nghiên cứu khác được công bố vào năm 2015, các nhà nghiên cứu đã tìm ra rằng trước khi được sinh ra, trẻ tự kỷ có mức hormon `sex steroid` tăng cao (bao gồm testosterone). Kết quả nghiên cứu cho thấy các hormon steroid giới tính trước khi sinh có liên quan đến sự phát triển của chứng tự kỷ là một cách giải thích tại sao bệnh tự kỷ được chẩn đoán nhiều hơn ở nam giới.

Nhóm nghiên cứu nhấn mạnh rằng khả năng sinh ra trẻ mắc chứng tự kỷ là rất thấp ngay cả ở những phụ nữ mắc PCOS, tuy nhiên việc tìm ra mối liên kết này giúp hiểu rõ hơn về một trong những yếu tố gây bệnh tự kỷ.

Nhóm nghiên cứu cũng tiến hành hai nghiên cứu khác và thấy rằng phụ nữ mắc chứng tự kỷ có nhiều khả năng mắc PCOS hơn và ngược lại. Điều này cho thấy rõ ràng rằng hai điều kiện này được liên kết với nhau và được giải thích do liên quan đến nồng độ hormon giới tính tăng cao.

Các nhà nghiên cứu cho biết đây là một bằng chứng quan trọng mới cho lý thuyết rằng chứng tự kỷ không chỉ gây ra bởi gen mà còn bởi hocmon steroid giới tính trước khi sinh chẳng hạn như testosterone. Nghiên cứu mới này giúp hiểu được tác động của testosterone đối với não bộ đang phát triển và hành vi, suy nghĩ của đứa trẻ sau này cũng như tìm ra những phương pháp để can thiệp, giảm nhẹ triệu chứng ở những trẻ mắc chứng tự kỷ.

Ước tính cứ khoảng 10 phụ nữ thì một người có triệu chứng của PCOS. Hội chứng này được gây ra bởi nồng độ testosterone tăng cao, bao gồm các túi chứa đầy chất lỏng (gọi là nang) trong buồng trứng. PCOS có các triệu chứng như chậm phát triển tuổi dậy thì, chu kỳ kinh nguyệt không đều và tóc mọc dày.

Tự kỷ gây ra những khó khăn trong giao tiếp, tương tác xã hội và gây ra rối loạn, khó khăn trong việc thích nghi với môi trường xung quanh. Một số người mắc chứng tự kỷ cũng có những khó khăn trong học tập và ngôn ngữ, rối loạn cảm giác. Các dấu hiệu của chứng tự kỷ biểu hiện rất sớm từ khi còn trẻ. Ước tính có khoảng 1% dân số có các triệu chứng của tự kỷ.

Phan Hưng

(Theo Medicalexpress.com)

Các bệnh truyền nhiễm có thể phòng ngừa hiệu quả bằng vắc

Vắc-xin phòng bệnh sởi

Sởi là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do virut sởi gây nên với các biểu hiện sốt, phát ban, chảy nước mũi, ho, mắt đỏ... Bệnh có thể gặp ở cả trẻ em và người lớn nếu không có miễn dịch và có thể bùng phát thành dịch. Bệnh sởi tuy ít gây tử vong nhưng thường có biến chứng đi kèm như viêm phổi, viêm tai giữa, tiêu chảy, khô loét giác mạc và đôi khi có viêm não sau sởi... Bệnh sởi có tính lây lan nhanh, chủ yếu lây truyền theo đường không khí, tác nhân gây bệnh phát tán khi người bệnh ho, hắt hơi.

Vắc-xin phòng bệnh sởi là vắc-xin sống giảm độc lực có tác dụng bảo vệ cao. Vắc-xin phòng sởi có thể ở dạng đơn hoặc phối hợp (vắc- xin 2 trong 1: sởi - Rubella; vắc-xin 3 trong 1: sởi - quai bị - Rubella). Theo khuyến cáo, hiện nay để đạt hiệu quả bảo vệ cao nhất, trẻ em phải được tiêm vắc-xin sởi mũi thứ nhất lúc 9 tháng tuổi và mũi thứ hai lúc 15 -18 tháng tuổi và mũi nhắc lại lúc 4-5 tuổi. Trẻ trên 18 tháng tuổi chưa được tiêm vắc-xin sởi mũi thứ hai, cần phải tiêm càng sớm càng tốt. Người lớn chưa từng được tiêm vắc-xin sởi và chưa từng mắc sởi cần tiêm ngay một mũi vắc-xin sởi. Để tạo miễn dịch cho người mẹ và miễn dịch này được mẹ truyền cho con qua nhau thai, phụ nữ tuổi sinh đẻ cần được tiêm vắc-xin sởi ít nhất 3 tháng trước khi có thai. Đối tượng có nguy cơ cao có thể được tiêm nhắc lại vắc-xin sởi sau mỗi 3-5 năm. Khi được tiêm đúng, tiêm đủ vắc-xin sởi có hiệu lực bảo vệ 85% (80-90%), thời gian bảo vệ trên 10 năm.

Các bệnh truyền nhiễm có thể phòng ngừa hiệu quả bằng vắc-xin

Vắc-xin phòng bệnh quai bị

Bệnh quai bị (còn được gọi là bệnh viêm tuyến mang tai dịch tễ hay viêm tuyến mang tai do virut quai bị) là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do virut, lây chủ yếu theo đường không khí và giọt bắn đường hô hấp, hay gây thành dịch trong trẻ em, thanh thiếu niên. Biểu hiện lâm sàng phổ biến nhất là viêm tuyến nước bọt mang tai không hóa mủ. Bệnh tuy lành tính nhưng có khả năng gây biến chứng viêm tinh hoàn ở nam giới hoặc viêm buồng trứng ở nữ giới và có thể dẫn đến vô sinh, ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng sống. Các tuyến nước bọt khác, tụy và hệ thần kinh trung ương cũng có thể bị tổn thương.

Vắc-xin phòng bệnh quai bị là biện pháp phòng bệnh quai bị chủ động. Vắc-xin quai bị cũng là vắc-xin sống, giảm độc lực, thường kết hợp 3 trong 1 với vắc-xin phòng sởi và Rubella. Hiện nay lịch tiêm vắc- xin quai bị được khuyến cáo cho trẻ từ 12 tháng tuổi trở lên. Tuy nhiên nếu trẻ sống trong môi trường tập thể, hay trong cộng đồng đang có dịch, có thể tiêm cho trẻ từ 9 tháng tuổi. Tiêm mũi nhắc lúc trẻ 4-6 tuổi. Hiệu lực bảo vệ của vắc-xin quai bị có thể đạt >90%, thời gian bảo vệ kéo dài trên 10 năm.

Không tiêm vắc-xin quai bị cho phụ nữ có thai, người bị dị ứng với bất cứ thành phần nào của vắc-xin, người đang dùng thuốc giảm miễn dịch (corticoid, thuốc điều trị ung thư), điều trị bằng phóng xạ, suy giảm miễn dịch tiên phát, bệnh ác tính về máu...

(Còn nữa)

TS.BS. Lê Kiến Ngãi

Cảnh giác với tai nạn về điện mùa mưa bão

Vì thế, trong những ngày mưa lũ, bất cứ thiết bị điện nào trong nhà cũng có thể trở thành mối nguy hiểm cho các thành viên trong gia đình. Bài viết dưới đây giúp các bạn có thêm kiến thức về vấn đề xử trí đúng khi bị điện giật.

Điện giật thường gây nhiều loại tổn thương cho cơ thể nạn nhân, có thể bị ngừng tim, ngừng thở và tổn thương các cơ quan gây nguy cơ tử vong cao hoặc để lại các di chứng nặng nề. Mối nguy hiểm của điện giật phụ thuộc vào mức điện thế của dòng điện, dòng điện xoay chiều hay một chiều. Với cường độ dòng điện dưới 30mA sẽ không ảnh hưởng gì nhiều, dưới 80mA sẽ gây giật nhẹ, từ 80-300mA sẽ gây nguy hiểm. Bên cạnh đó là các yếu tố như dòng điện truyền qua cơ thể như thế nào, thời gian tiếp xúc dòng điện và điện trở của mô tiếp xúc. Với những mô xương, do điện trở cao nên ít nguy hiểm hơn, với mô da, đặc biệt là da ẩm ướt, điện trở càng thấp thì mức độ nguy hiểm càng cao.

Hô hấp nhân tạo tại chỗ cho người bị điện giật.

Xử trí tại chỗ khi bị điện giật

Cắt nguồn điện càng nhanh càng tốt, chú ý đề phòng nạn nhân ngã, đảm bảo cách điện cho người cứu nạn nhân tránh điện giật hàng loạt. Tiến hành ngay hồi sinh tim phổi cơ bản bằng cách hô hấp nhân tạo: đặt nạn nhân nằm ngửa trên nền đất cứng hoặc ván cứng, đầu ngửa tối đa (không làm nếu chưa loại trừ chấn thương cột sống cổ) lấy dị vật trong miệng nạn nhân (nếu có). Đấm vào vùng trước tim nạn nhân 5 cái, nếu tim không đập lại tiến hành thổi ngạt kết hợp ép tim ngoài lồng ngực. Thổi ngạt kiểu miệng - miệng hoặc miệng - mũi, 5 lần ép tim 1 lần thổi ngạt (nếu có 2 người tham gia cấp cứu), 15 lần ép tim 1 lần thổi ngạt (nếu 1 người cấp cứu). Tiếp tục cấp cứu đến khi tim đập lại, nạn nhân tự thở được. Khi nạn nhân tự thở được, tim đập lại tiến hành cố định cột sống cổ (nếu nghi ngờ tổn thương), cố định xương gãy, băng cầm máu sau đó chuyển bệnh nhân đến bệnh viện. Chỉ vận chuyển nạn nhân đến cơ sở y tế khi tim đã đập lại và tự thở (khi vận chuyển phải theo dõi sát).

Những ghi nhớ

Cần lưu ý, tại nơi xảy ra tai nạn điện giật, trước tiên cần lập tức ngắt nguồn điện, nếu không biết cầu dao điện ở đâu thì cần dùng kìm cắt dây điện hoặc dùng vật dụng khô (nên dùng gậy nhựa hoặc gỗ khô, không dùng vật dụng bằng kim loại) gạt dây điện ra. Nạn nhân đang ở nơi có nhiều nước thì cần đưa ra khỏi vùng nước. Cần ủ ấm, tránh để cho nạn nhân bị lạnh.

Tuyệt đối không vì hoảng loạn mà sờ vào người bị điện giật khi chưa ngắt điện. Bản thân người sơ cứu cũng không được dùng tay không mà nên mang găng tay cao su hay quấn bao nilon, vải khô, đi dép khô, đứng ở nơi khô ráo khi ngắt nguồn điện.

Kiểm tra xem nạn nhân còn thở hay không bằng cách áp má vào mũi nạn nhân và xem lồng ngực có di động hay không, hoặc dùng tay đặt vào động mạch hai bên cổ nạn nhân.

Sau khi bệnh nhân bị ngất mà tỉnh hẳn vẫn nên đưa vào bệnh viện kiểm tra và theo dõi, những trường hợp hơi mất ý thức cũng cần cẩn trọng vì nhiều trường hợp bệnh nhân ngất đi, tỉnh lại vẫn có thể có biến chứng trong vài ngày sau.

Đối với trường hợp nạn nhân bị bỏng, không được tạt nước vào khiến cho thương tổn nặng nề hơn. Ngoài ra, cần tránh áp dụng các biện pháp như cạo gió, xoa dầu, những điều này chỉ càng làm mất thời gian trong việc cấp cứu.

Đề phòng điện giật

Để đề phòng điện giật, cần tuân thủ các quy tắc sử dụng điện an toàn. Phải lưu ý, ngắt nguồn điện khi sửa điện, các ổ cắm điện, thiết bị điện cần để xa tầm với của trẻ em. Trên thực tế, các cơ sở y tế thường tiếp nhận khá nhiều trường hợp bị điện giật, chủ yếu là thợ sửa điện, thợ sơn, thợ hàn, những người làm những công việc liên quan đến thiết bị điện, kể ca sửa điện ở nhà...

Khi sửa những vật dụng có điện khác, thông thường mọi người ngắt cầu dao rồi mới tiến hành sửa. Còn sửa bồn nước, nhiều người thường quên rằng bồn nước trên mái nhà cũng có gắn điện, quên ngắt cầu dao thì có thể bị giật điện khá nguy hiểm. Ngoài ra, nhiều trường hợp bị điện giật còn do phơi quần áo ướt lên dây sắt có dẫn điện, chạm phải dây điện rơi xuống đường, xuống vùng có nước, nhất là mùa mưa bão... Nhiều trường hợp cấp cứu nạn nhân là trẻ nhỏ, do ổ cắm điện trong gia đình để quá thấp, các thiết bị điện bị nhiễu, trẻ vô tình chạm phải.

Lời khuyên của thầy thuốcKhi ngắt điện, cần đề phòng nạn nhân bị ngã gây chấn thương khiến tai nạn nặng thêm. Người vào cứu tuyệt đối không dùng tay để kéo nạn nhân ra khi nguồn điện chưa được cắt để tránh bị điện giật. Toàn bộ công việc cấp cứu ngừng tim chỉ gói gọn trong 3 phút, do vậy người cấp cứu phải thật bình tĩnh, khẩn trương, thực hiện đúng cách và tiến hành ngay tại nơi xảy ra điện giật. Sau đó chuyển ngay nạn nhân đến các cơ sở y tế.

BS. Vĩnh Ninh

Khắc phục mệt mỏi, đau nhức khi thay đổi thời tiết

Nguyên nhân do đâu?

Những bệnh lý cơ xương khớp hay gặp ở người lớn tuổi như: thoái hóa khớp - cột sống, loãng xương, viêm khớp dạng thấp và chứng đau mạn tính...Trong số những bệnh lý kể trên, khi thời tiết thay đổi, người lớn tuổi hay bị khởi phát nhiều nhất là các cơn gút cấp và viêm khớp mạn tính.

Nguyên nhân là sức đề kháng của cơ thể giảm sút và các yếu tố gây bệnh như vi khuẩn, virut dễ dàng tấn công. Đối với những bệnh nhân bị thoái hóa khớp mạn tính, cơn đau sẽ biểu hiện rõ rệt hơn khi thay đổi thời tiết đột ngột. Đối với bệnh nhân mắc các bệnh lý xương khớp mạn tính dễ bị tái phát, các gân cơ thường bị co rút gây nên chứng vẹo cổ cấp, các khớp đầu gối, bàn chân và tay thường bị đau nhức.

Tuy nhiên cũng có nhiều trường hợp do cơ thể thiếu một số khoáng chất như magie, canxi, sắt kẽm... mọi người có thể dựa vào sự nhức mỏi của cơ thể để đoán được mình đang bị thiếu chất gì. Nếu đau nhức mỏi xương, nhất là về đêm đau nhức các ống xương tay, chân,…người bệnh đau nhức khó chịu muốn trở mình, cảm giác buồn bực là do cơ thể thiếu can xi. Nếu hay bị kích thích cơ, chuột rút, đau cơ có thể thiếu magie. Người mỏi mệt, hay bị táo bón, da xanh có thể đang bị thiếu sắt.

Đối với người hoạt động quá nhiều và căng thẳng, làm việc thụ động cơ bắp như ngồi lâu trước máy tính, làm việc bàn giấy, trực máy quá lâu …, khiến lượng acid lactic trong tế bào cơ tăng cao, lượng ion kali trong tế bào bị thoát ra bên ngoài dẫn ra tình trạng đau nhức, mỏi mệt, uể oải.

Một số thói quen hàng ngày cũng là nguyên nhân gây nhức mỏi như tư thế ngồi học, làm việc không đúng gây đau lưng, cổ, đầu gối, chân tay nhức mỏi, đi giày cao gót làm đầu gối, hông, lưng đau nhức.

Biện pháp khắc phục

- Vận động, xoa bóp

Để khắc phục chứng nhức mỏi cần gia tăng sự tuần hoàn máu bằng cách vận động sau khoảng thời gian làm việc thụ động quá lâu. Luyện tập được xem như một liều thuốc quý, rất có ích đối với sức khỏe con người và đặc biệt cực kỳ công hiệu trong việc giảm đau nhức. Có rất nhiều hình thức luyện tập mà có thể lựa chọn phù hợp theo độ tuổi, sức lực và sở thích, ví như những môn thể thao bơi lội, aerobic hay chỉ đơn giản là hình thức đi bộ.

Nếu do lao động nặng nhọc cần giảm sự hoạt động quá sức của cơ bắp. Đau, mỏi vai thì xoa bóp vùng gáy cổ, các đốt sống cổ, bả vai, mục đích là làm lưu thông máu, thư giãn cơ, sẽ đem lại hiệu quả. Ngoài ra, bạn cũng có thể sử dụng biện pháp xoa bóp, bấm huyệt có thể trị chứng đau, nhức mỏi người . Cách day ấn các huyệt dọc theo hai bên sống lưng, từ đốt sống cổ đến tận vùng thắt lưng, khoảng 10 - 15 phút mỗi ngày rất hiệu nghiệm.

Người hay đau nhức cũng có thể sử dụng biện pháp xông hơi cổ truyền trị đau nhức, mỏi vai, cơ bằng các loại lá cây có tinh dầu ở tại nhà. Lưu ý là khi xông xong phải lau khô, tránh gió lùa kẻo bị đau nhức nhiều hơn. Sau khi xông không được tắm nước lạnh, mà uống một tách trà chanh nóng, hoặc trà gừng có ít đường. 2 giờ sau khi xông hơi mới nên tắm lại bằng nước lạnh.

Đối với người mắc bệnh lý mạn tính xương khớp ngoài việc uống thuốc theo chỉ định của bác sĩ thì cũng có thể sử dụng phương pháp tập luyện, y học cổ truyền nhưng cần có sự tư vấn của các nhà chuyên môn cho phù hợp với thể bệnh và cơ địa.

-Chế độ ăn cân bằng

Chế độ dinh dưỡng thật khoa học cũng góp phần tích cực trong việc giảm đau nhức các khớp xương. Một chế độ ăn uống được coi là hiệu ích bao gồm: Cân bằng và đa dạng hóa việc thu nạp vitamin, khoáng chất, chất chống ô xy hóa và các chất dinh dưỡng khác… Thực hiện chế độ ăn uống giảm cân nếu bạn thuộc nhóm thừa cân, bởi béo phì cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới chứng đau nhức xương khớp…Hạn chế các chất béo từ mỡ động vật, thay vào đó hãy sử dụng dầu thực vật, dầu omega 3 và dầu cá… Thực hiện chế độ ăn uống nhiều rau xanh và trái cây. Ưu tiên thực phẩm giầu canxi, vitamin khoáng chất. Thực phẩm giàu canxi có trong các sản phẩm làm từ đậu tương, cây họ đậu, hạnh nhân, hạt vừng, quả óc chó... Các loại rau lá xanh sẫm (rau muống, rau mồng tơi, cải xanh...), cá hồi, cá mòi, sữa không béo vừa calo thấp, vừa giàu canxi và còn bổ sung các vitamin, khoáng chất, vitamin D giúp tăng hấp thụ canxi.

Thực phẩm giàu magie có trong các loại rau xanh nhiều diệp lục, lúa mì, đậu các loại, quả cứng các loại, thịt, hải sản... Sữa bò, sôcôla cũng giàu magie, nhưng thực phẩm công nghiệp lại rất nghèo magie.

Điều lưu ý, mọi người cần tuyệt đối không tự ý điều trị thuốc đau nhức xương khớp .Vì bệnh lý cơ xương khớp có nhiều thể, chỉ bác sĩ mới biết chính xác và có thể đưa ra phác đồ điều trị phù hợp.

BS. Mai Thanh Tâm

Dấu hiệu nhận biết bệnh sởi

Nguyễn Thị Hải Yến (Hòa Bình)

Không có vắc-xin nào đạt hiệu quả 100%. Nếu mới tiêm phòng sởi mũi 1, chỉ đạt trên 80%, tiêm xong mũi 2 đạt trên 90%. Như vậy, trẻ mới tiêm mũi 1 có thể vẫn lây mắc sởi dù tỷ lệ này rất thấp.

Trẻ nhiễm bệnh sởi có thời gian ủ bệnh từ 7-21 ngày, sau đó có thể có các triệu chứng như: sốt cao trên 39°C, viêm long đường hô hấp trên, chảy nước mũi, ho khan kéo dài, khàn tiếng, có hạt Koplik trong miệng, chảy nước mắt, viêm màng tiếp hợp, mắt có gỉ kèm nhèm, sưng nề mí mắt. Ban mọc theo thứ tự bắt đầu ngày thứ nhất từ đầu, mặt, cổ, ngày thứ 2 ngực lưng cánh tay, ngày thứ 3 bụng, mông, đùi, chân, khi ban mọc tới chân hết sốt và ban bắt đầu bay.

Cách ly trẻ để tránh lây nhiễm. Người chăm sóc cần đeo khẩu trang, rửa tay sạch trước và sau mỗi lần tiếp xúc với trẻ bị bệnh. Cho trẻ uống thuốc hạ sốt khi sốt đến 38,5°C hoặc hơn theo chỉ định của bác sĩ. Không kiêng tắm để giữ vệ sinh thân thể, nhưng tránh gió, tránh bị lạnh. Cắt móng tay để tránh trẻ ngứa gãi làm xước da. Nhỏ mắt bằng nước muối 0,9% ngày 3 lần.Trẻ còn bú mẹ vẫn tiếp tục cho bú kết hợp chế độ ăn bổ sung hợp lý (nếu trẻ trên 6 tháng). Ăn đầy đủ dinh dưỡng. Trong trường hợp trẻ bị biến chứng tiêu chảy hoặc viêm phổi, cần bổ sung kẽm bằng đường uống. Trẻ lớn đảm bảo ăn đầy đủ chất dinh dưỡng, uống nhiều nước, nước ép hoa quả chứa nhiều vitamin A. Bổ sung vitamin A để bảo vệ mắt.

BS. Hồng Minh

Các bệnh rình rập mùa mưa bão và cách phòng tránh

Những bệnh nào có nguy cơ xảy ra?

Bệnh do ấu trùng xâm nhập da: Do trứng của giun sán tồn tại trong đất cát nở thành ấu trùng và xâm nhập da người, di trú trên da với tốc độ vài centimet một ngày. Chúng di chuyển ngay dưới lớp sừng tạo thành đường ngoằn ngoèo, hơi nổi cao, rộng khoảng 2 - 3mm. Số lượng tổn thương phụ thuộc vào số lượng ấu trùng xâm nhập. Vị trí hay gặp là ở cẳng chân, mông, quanh hậu môn, tay; ấu trùng tồn tại trên da trung bình 2 - 8 tuần. Để phòng bệnh, cần tránh tiếp xúc trực tiếp với đất cát chứa phân.

Bệnh đường tiêu hóa: Các bệnh đường tiêu hóa hay gặp như tả, lỵ, thương hàn, nhiễm khuẩn, nhiễm độc thức ăn do các loại vi khuẩn khác (E.coli, Campylobacter...) hoặc amíp. Nhóm các bệnh này thường dễ gây dịch với các triệu chứng cơ bản như đau bụng, mót rặn, tiêu chảy cấp.

Điển hình hay gặp nhất trong và sau mưa, lũ, lụt là bệnh tiêu chảy. Đứng hàng đầu là tiêu chảy cấp tính. Bệnh tiêu chảy cấp tính có thể do nhiều loại vi khuẩn khác nhau gây nên nhưng nguy hiểm nhất là vi khuẩn tả (Vibrio cholera). Ở những vùng, miền xảy ra mưa, lũ, lụt mà trong các nguồn nước có vi khuẩn tả thì cực kỳ nguy hiểm vì chúng có khả năng lây lan nhanh chóng. Bên cạnh tiêu chảy cấp do vi khuẩn tả thì căn nguyên gây tiêu chảy do vi khuẩn thương hàn (Salmonella), vi khuẩn lỵ (Shigella), vi khuẩn E.coli, Campylobacter và một số vi khuẩn đường ruột khác cũng đóng vai trò đáng kể trong việc gây bệnh tiêu chảy gặp ở vùng mưa, lũ, lụt liên quan đến vệ sinh môi trường, vệ sinh thực phẩm và nước dùng trong sinh hoạt (ăn, uống).

Hướng dẫn người dân xử lý nước sinh hoạt sau khi nước rút.

Bệnh về da: Bệnh phát sinh trực tiếp từ các nguồn bệnh trong vùng bão lũ. Các bệnh này bao gồm một số bệnh da liễu như nấm kẽ chân, nấm móng; viêm kẽ ngón tay, ngón chân (dân gian gọi là nước ăn chân); mẩn ngứa; viêm da. Theo đó, bệnh nhiễm khuẩn da chủ yếu lây do nguồn nước bẩn. Vì vậy cần thường xuyên tắm và rửa mặt bằng nước đã được làm trong, khử khuẩn để phòng bệnh ngoài da.

Bệnh sốt xuất huyết: Sau mưa lũ các bệnh do vector truyền bệnh phát sinh mạnh. Đây là các bệnh rất dễ lây và bùng phát dịch trên diện rộng. Điển hình là bệnh sốt xuất huyết. Nguồn nước tù đọng, thời tiết nóng ẩm tạo điều kiện cho muỗi và virut sinh sôi nảy nở gây bệnh cho người. Do đó, cách phòng bệnh tốt nhất là diệt muỗi, diệt bọ gậy (lăng quăng) và phòng chống muỗi đốt.

Diệt bọ gậy bằng cách thả cá đuôi cờ vào các nơi chứa nước để cá diệt bọ gậy; loại bỏ nơi sinh sản của muỗi: (thu gom, hủy bỏ các vật dụng phế thải xung quanh nhà là những nơi có thể chứa nước mưa tạo nơi đẻ trứng của muỗi như chai lọ vỡ, ống bơ, vỏ và gáo dừa, lốp xe...); đậy kín các dụng cụ chứa nước như: bể nước, chum, vại, lu khạp; lật úp các dụng cụ chứa nước khi không dùng đến; bỏ muối hay nhỏ dầu hỏa vào bát kê chân chạn (tủ đựng chén bát), thường xuyên thay rửa lọ hoa (bình bông); phun hóa chất diệt muỗi xung quanh nơi ở.

Bệnh viêm gan A: Bệnh do một loại virut lây từ người sang người khi ăn phải các thực phẩm bị nhiễm độc bởi chất thải và nước tiểu của người đã bị viêm gan A. Tình trạng này rất dễ xảy ra trong mùa mưa bão khi virut từ nơi này dễ lây lan sang nơi khác. Để phòng tránh viêm gan A, cần rửa tay sạch sẽ sau khi đi vệ sinh và trước khi chế biến đồ ăn. Các loại hải sản có vỏ như sò, trai được bán khá rẻ trong mùa mưa vì dễ đánh bắt nhưng cần được nấu tối thiểu 4 phút để đảm bảo diệt hết vi khuẩn.

Bệnh đau mắt đỏ: Khi mùa mưa, bão lụt điều kiện vệ sinh, nước sạch không bảo đảm; thời tiết ẩm tạo điều kiện cho virut gây bệnh đau mắt. Bệnh đau mắt đỏ dễ lây nên rất dễ bùng phát thành dịch. Bệnh lây khi người lành tiếp xúc trực tiếp với người bệnh qua đường hô hấp, nước mắt, nước bọt, bắt tay, đặc biệt nước mắt người bệnh là nơi chứa rất nhiều virut; cầm, nắm, chạm vào những vật dụng nhiễm nguồn bệnh; dùng chung đồ dùng sinh hoạt như khăn mặt, gối; sử dụng nguồn nước bị nhiễm mầm bệnh...

Để phòng tránh bệnh đau mắt đỏ lây lan thành dịch: Vệ sinh cá nhân phải đảm bảo, rửa tay bằng xà phòng và nước sạch. Rửa mắt bằng nước muối sinh lý (0,9%) ít nhất 3 lần/ngày. Không dùng chung thuốc nhỏ mắt, đồ đạc với người đau mắt. Hạn chế tiếp xúc với người bị đau mắt. Nên đeo kính râm khi ra đường.

Phòng bệnh trong mùa mưa bão

Trước tình hình mùa mưa bão đang diễn ra, để chủ động triển khai các biện pháp phòng chống dịch bệnh, không để dịch bệnh lây lan, bùng phát, Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế đã khuyến cáo người dân cần chú ý: Thực hiện ăn chín, uống chín, bảo đảm an toàn thực phẩm, thường xuyên rửa tay với xà phòng. Thực hiện thau rửa bể nước, giếng nước, dụng cụ chứa nước và dùng những hóa chất được Bộ Y tế khuyến cáo để khử trùng nước sử dụng cho ăn uống và sinh hoạt.

Bảo đảm vệ sinh môi trường: Thực hiện nguyên tắc nước rút đến đâu làm vệ sinh môi trường đến đó, tổ chức thu gom, xử lý, chôn xác động vật. Sử dụng vôi bột hoặc các hóa chất được Bộ Y tế khuyến cáo để xử lý khi chôn cất. Phun hóa chất diệt côn trùng truyền bệnh tại các vùng có nguy cơ. Kịp thời phát hiện và dập tắt bệnh dịch truyền nhiễm như tiêu chảy, đau mắt đỏ, viêm đường hô hấp, nước ăn chân, cảm cúm, đặc biệt cần đề phòng dịch tả, lỵ, thương hàn...

ThS.BS. Phạm Hùng Quang